Marketing thương mại là gì? Đến nay, Marketing thương mại vẫn đang là khía cạnh “sống còn” của mỗi doanh nghiệp. Đây cũng là một trong những ngành học “hot” hiện nay được các bạn trẻ săn đón rất nhiều. Hãy cùng VinUni tìm hiểu rõ hơn về ngành Marketing thương mại qua bài viết sau nhé!
Marketing thương mại là gì? Đến nay, Marketing thương mại vẫn đang là khía cạnh “sống còn” của mỗi doanh nghiệp. Đây cũng là một trong những ngành học “hot” hiện nay được các bạn trẻ săn đón rất nhiều. Hãy cùng VinUni tìm hiểu rõ hơn về ngành Marketing thương mại qua bài viết sau nhé!
Thương mại quốc tế tư là hoạt động thương mại quốc tế diễn ra giữa các thương nhân (cá nhân, tổ chức kinh tế có thể là quốc gia khi quốc gia tham gia với tư cách như một thương nhân). Tính “quốc tế” hay sự liên quan tới hai hay nhiều quốc gia khác nhau của hoạt động thương mại quốc tế tư phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật, điều ước quốc tế. Các tiêu chí thường được dùng để xác định tính “quốc tế” của hoạt động thương mại quốc tế tư, quan hệ thương mại quốc tế tư gồm:
– Một bên hoặc các bên là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài; hoặc
– Căn cứ để xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ thương mại phát sinh ở nước ngoài; hoặc
– Tài sản là đối tượng của quan hệ thương mại đang ở nước ngoài.
Quan hệ thương mại quốc tế giữa thương nhân và quốc gia (quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ, quan hệ giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư…) có thể được coi là một dạng quan hệ thương mại quốc tế tư đặc biệt. Dù quan hệ này có sự tham gia của quốc gia- chủ thể có quyền miễn trừ tư pháp, ngày nay, quốc gia thường từ bỏ quyền miễn trừ này khi tham gia quan hệ thương mại quốc tế với thương nhân, theo đó, biến vị thế của quốc gia trở nên tương tự như thương nhân trong quan hệ thương mại giữa hai bên.
Từ đó có thể hiểu quan hệ thương mại song phương là quan hệ thương mại quốc tế được tiến hành giữa hai quốc gia nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm việc mua bán hàng hóa, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi.
Marketing thương mại hướng nhiều tới các doanh nghiệp trung gian trong chuỗi cung ứng sản phẩm đến với khách hàng cuối cùng. Doanh nghiệp sẽ có những hoạt động như thưởng doanh số, tăng chiết khấu, tạo sự kiện, pop-up tại điểm bán,… để kích thích các đối tác của họ đẩy bán sản phẩm tới khách hàng từ đó kéo theo nhu cầu mua hàng của khách hàng.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, hoạt động thương mại bao gồm các hoạt động sau:
- Mua bán hàng hoá: Là hoạt động mà trong đó tồn tại bên mua và bên bán. Bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; còn bên mua phải thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.
- Cung ứng dịch vụ: Là hoạt động mà trong đó tồn tại 02 bên là bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ (còn gọi là khách hàng). Trong đó, bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; còn bên sử dụng dịch vụ phải thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
- Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Hoạt động này bao gồm khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại.
- Các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác có thể kể đến như: Hoạt động trung gian thương mại (đại diện thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý thương mại), gia công trong thương mại, đấu giá hàng hóa, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, dịch vụ logistic,…
Trade promotion hay xúc tiến thương mại có lẽ là một hình thức rất thường thấy khi tìm hiểu về Marketing thương mại. Các nhà sản xuất lựa chọn những ưu đãi khác nhau cho những đối tác kinh doanh khác nhau nhằm mục đích tối đa hoá doanh số bán ra.
Các hình thức trade promotion thường thấy bao gồm:
Căn cứ Điều 317 Luật Thương mại năm 2005, tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được giải quyết theo một trong các hình thức sau:
Thực hiện bởi một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.
Theo Điều 6 Luật Trọng tài thương mại, nếu các bên đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án không được thụ lý đơn khơi kiện, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài đó vô hiệu hoặc không thể thực hiện được.
Thời hiệu khởi kiện tranh chấp thương mại là hai năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp của một bên bị xâm phạm.
Trên đây là thông tin giải đáp cho câu hỏi: “Thương mại là gì?” và những vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động thương mại. Nếu vẫn còn vấn đề vướng mắc về hợp đồng thương mại, bạn đọc vui lòng liên hệ tổng đài 1900.6192 để được tư vấn, hỗ trợ chi tiết.
Marketing thương mại không chỉ là việc bán sản phẩm mà còn bao gồm nhiều mục tiêu khác nhau để thúc đẩy sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Từ việc gia tăng nhận diện thương hiệu đến việc tạo dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng, mỗi mục tiêu đều đóng vai trò quan trọng trong chiến lược tổng thể. Dưới đây là những mục tiêu chính của Marketing thương mại và cách chúng hỗ trợ doanh nghiệp đạt được thành công:
Bên cạnh thuật ngữ thương mại là gì, nhiều người cũng rất thắc mắc về mức phạt vi phạm hợp đồng thương mại.
Vi phạm hợp đồng thương mại là việc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật Thương mại. Khi vi phạm hợp đồng thương mại, thương nhân sẽ phải chịu trách nhiệm như sau:
7.1. Mức phạt vi phạm hợp đồng thương mại
Theo quy định tại Điều 300 Luật Thương mại năm 2005, việc phạt vi phạm được quy định như sau:
Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này.
Theo quy định này, việc phạt vi phạm chỉ đặt ra khi hợp đồng thương mại giữa các bên có thỏa thuận về nội dung phạt vi phạm và một trong các bên vi phạm điều khoản về phạt hợp đồng đã thỏa thuận.
Căn cứ Điều 301 Luật Thương mại năm 2005, mức phạt vi phạm được quy định như sau:
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.
Như vậy, nếu vi phạm hợp đồng thương mại, bên vi phạm có nghĩa vụ nộp phạt theo mức mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên mức phạt tối đa sẽ bị giới hạn ở mức 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.
7.2 Mức bồi thường thiệt hại hợp đồng thương mại
Theo Điều 302 Luật Thương mại, nếu một bên vi phạm hợp đồng thương mại gây thiệt hại cho bên còn lại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường tổn thất. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm:
- Giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm hợp đồng thương mại phải chịu
- Khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm hợp đồng thương mại đáng lẽ được hưởng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có đẩy đủ các yếu tố sau:
- Hành vi vi phạm không thuộc trường hợp được miến trách nhiệm.
- Hành vi vi phạm hợp đồng thương mại là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Để được bồi thường đầy đủ, bên bị thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất và khoản lợi trực tiếp mà đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
7.3. Trường hợp được miễn trách nhiệm khi vi phạm
Căn cứ Điều 294 Luật Thương mại 2005, bên vi phạm hợp đồng thương mại sẽ được miễn trách nhiệm nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng thương mại.
- Xảy ra sự kiện bất khả kháng.
- Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia.
- Hành vi vi phạm xảy ra do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm ký hợp đồng thương mại.
Để được miễn trách nhiệm khi vi phạm, bên vi phạm hợp đồng thương mại phải chứng minh được mình thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm.