Thực tiễn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (được quy định trong 06 điều luật - từ Điều 223 đến Điều 228 Chương XVI Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập, như: Chưa quy định đầy đủ các trường hợp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; chưa quy định cụ thể thời hạn mà Cơ quan điều tra phải gửi quyết định áp dụng biện pháp này cho Viện kiểm sát cùng cấp, thời hạn Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phải phê chuẩn… đòi hỏi thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện.
Thực tiễn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (được quy định trong 06 điều luật - từ Điều 223 đến Điều 228 Chương XVI Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập, như: Chưa quy định đầy đủ các trường hợp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; chưa quy định cụ thể thời hạn mà Cơ quan điều tra phải gửi quyết định áp dụng biện pháp này cho Viện kiểm sát cùng cấp, thời hạn Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phải phê chuẩn… đòi hỏi thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện.
Khái quát tình hình triển khai thực hiện Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) hiện hành được Quốc hội khóa XII tại kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 03/6/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 (thay thế Luật Thuế TNDN năm 2003). Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) giai đoạn đã qua, để khắc phục những bất cập phát sinh trong thực tiễn, Quốc hội đã ban hành các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 ngày 19/6/2013 (áp dụng từ ngày 01/01/2014); Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế (trong đó có Luật Thuế TNDN và áp dụng từ ngày 01/01/2015) và Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 ngày 17/6/2020 (áp dụng từ ngày 01/01/2021). Ngoài ra, trong những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế, Quốc hội cũng đã ban hành một số nghị quyết về giảm thuế TNDN cho một số đối tượng để kịp thời hỗ trợ cho các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng.
Qua hơn 15 năm thực hiện, Luật Thuế TNDN đã tác động tích cực đến nhiều mặt KT-XH của đất nước và đạt được các kết quả quan trọng như: Thể chế hóa các nội dung theo đúng định hướng cải cách hệ thống thuế, phí và lệ phí được xác định trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước cũng như Chiến lược cải cách hệ thống chính sách thuế giai đoạn 2011-2020, qua đó góp phần quan trọng trong tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, đảm bảo công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp; Góp phần quan trọng trong việc thu hút, khuyến khích đầu tư phát triển đất nước bằng cả nguồn lực trong nước và nước ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy các lĩnh vực trong nền kinh tế phát triển theo các định hướng ưu tiên, đặc biệt là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Chính sách thuế TNDN đã được hoàn thiện theo hướng ngày càng minh bạch, dễ thực hiện; đảm bảo đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan và phù hợp với yêu cầu thực tiễn, góp phần đảm bảo quyền lợi và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đồng thời góp phần phòng, chống các hành vi chuyển giá, các hành vi gây xói mòn cơ sở thuế. Luật Thuế TNDN cũng đã góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo tỷ lệ động viên hợp lý cho ngân sách nhà nước (NSNN), cơ cấu lại thu NSNN theo hướng bền vững, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn thu từ tài nguyên khoáng sản, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, tăng tỷ trọng thu nội địa.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, trong quá trình phát triển KT-XH và hội nhập kinh tế quốc tế, qua triển khai thực hiện chính sách thuế TNDN cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Cụ thể như: Tính ổn định của chính sách thuế TNDN còn chưa cao; Một số quy định của Luật Thuế TNDN hiện hành qua một thời gian thực hiện cũng đã bộc lộ một số điểm bất cập, không còn phù hợp với bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế hiện nay; Tác động của ưu đãi thuế đối với việc phân bổ nguồn lực và thu hút đầu tư có chọn lọc vào các lĩnh vực, địa bàn mà Nhà nước khuyến khích gắn với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn hạn chế.
Những thách thức đặt ra từ thực tiễn đối với sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
Bối cảnh KT-XH hiện nay và dự báo những năm tới đang đặt ra không ít thách thức đối với việc hoàn thiện các chính sách thuế nói chung và đặc biệt là chính sách thuế TNDN nói riêng. Đó là:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế toàn cầu còn chứa đựng nhiều rủi ro, các bất ổn cả về kinh tế và địa chính trị có xu hướng gia tăng, tiềm ẩn các nguy cơ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Cấu trúc kinh tế thế giới dự báo sẽ có những điều chỉnh để thích ứng với các xu thế phát triển mới cũng như các thách thức mà nhiều quốc gia đang phải đối mặt. Là quốc gia có độ mở lớn, những diễn biến này dự báo sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, kéo theo đó là những thách thức mới trong việc đảm bảo động viên nguồn lực cho NSNN.
Thứ hai, các “mô hình kinh doanh mới” và các giao dịch xuyên biên giới dựa trên nền tảng công nghệ số xuất hiện ngày càng nhiều. Phát triển thương mại điện tử dẫn đến sự ra đời nhiều loại hình dịch vụ, đặt ra nhiều thách thức với cơ quan thuế trong việc xác định bản chất giao dịch, vai trò của từng bên tham gia giao dịch, doanh thu, chi phí, thu nhập để vừa quản lý thu thuế phát sinh với hoạt động này, vừa tạo công bằng trong môi trường kinh doanh cũng như tạo thuận lợi cho loại hình kinh doanh này phát triển.
Chênh lệch về trình độ quản lý và sự khác biệt về các chính sách ưu đãi thuế trong thu hút đầu tư nước ngoài giữa các quốc gia, đang tạo ra các cơ hội cho các công ty động xuyên quốc gia lợi dụng các “kẽ hở chính sách” để né tránh hay giảm thiểu việc thực hiện các nghĩa vụ thuế có liên quan, nhất là trong việc sử dụng các thủ thuật chuyển giá để làm giảm lợi nhuận chịu thuế hoặc chuyển lợi nhuận sang các địa bàn có ít hoặc không có hoạt động kinh tế nhưng lại là những nơi có thuế suất thấp hoặc được miễn thuế, giảm thuế.
Thứ ba, yêu cầu tăng cường hợp tác thuế giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ ngày càng được chú trọng và Việt Nam không thể ở ngoài xu thế này. Xu hướng toàn cầu hóa đã làm cho vấn đề hợp tác quốc tế về thuế trở nên quan trọng đối với hầu hết các quốc gia, từ “cạnh tranh” chuyển sang “hợp tác” về thuế. Hợp tác giữa các quốc gia để xử lý các thách thức thuế toàn cầu cũng đang được đặt ra ngày càng cấp bách. Việt Nam cần chủ động có các giải pháp phù hợp để vừa đảm bảo được quyền đánh thuế của Việt Nam, vừa duy trì được sự hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước.
Thứ tư, cơ cấu và mức độ động viên NSNN còn chưa thực sự bền vững. Thu NSNN còn dựa vào các khoản thu từ vốn, các khoản thu có tính chất một lần, không tái tạo. Thặng dư ngân sách thường xuyên có xu hướng giảm. Thực tiễn này cũng đặt ra các sức ép khá lớn cho việc phải đẩy nhanh tiến trình cải cách hệ thống chính sách thuế trong những năm tới đây để góp phần đảm bảo sự bền vững tài khóa trong trung và dài hạn.
Những thách thức này đang đặt ra yêu cầu mới cho Việt Nam trong việc cải cách hệ thống chính sách thuế, trong đó thuế TNDN chiếm vai trò quan trọng. Các giải pháp điều chỉnh về chính sách thuế trong thời gian tới đây cần phải xử lý được những vấn đề đặt ra trong ngắn hạn gắn với yêu cầu phục hồi kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và những yêu cầu có tính chất dài hạn gắn với việc củng cố, cơ cấu lại thu NSNN theo hướng bền vững.
Mục tiêu, yêu cầu và những nội dung đề xuất sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
Từ thực tiễn tiến trình phát triển và những thách thức đặt ra nêu trên, cùng với việc rà soát, đánh giá tổng thể Luật Thuế TNDN hiện hành cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi Luật Thuế TNDN. Theo đó, tại Nghị quyết số 129/2024/QH15 ngày 8/6/2024 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, trong đó đã bổ sung dự án Luật Thuế TNDN (sửa đổi) trình Quốc hội khóa XV cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2024) và xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2024).
Việc xây dựng dự án Luật Thuế TNDN (sửa đổi) cần đảm bảo bám sát và thể hiện các mục tiêu, quan điểm sau:
- Hoàn thiện các quy định về chính sách thuế TNDN nhằm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước về cải cách hệ thống chính sách thuế nói chung, chính sách thuế TNDN nói riêng (như Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030; Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016, Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021, Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội; Quyết định số 508/QĐ-TTg ngày 23/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ...), đảm bảo tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật về thuế TNDN với quy định của pháp luật có liên quan, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích, thu hút đầu tư vào các ngành, lĩnh vực và địa bàn ưu tiên.
- Kế thừa và phát huy những quy định của Luật Thuế TNDN hiện hành đã được thực tiễn chứng minh đem lại các tác động tích cực đến KT-XH của đất nước; sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Thuế TNDN để khắc phục được các bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện thời gian qua; tháo gỡ được các bất cập, chồng chéo trong hệ thống pháp luật về thuế TNDN, tạo môi trường thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ pháp luật về thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ vào NSNN.
- Đảm bảo ổn định nguồn thu cho NSNN, góp phần cơ cấu lại thu NSNN theo hướng bền vững; có giải pháp phù hợp để khắc phục tình trạng chuyển giá, phòng chống trốn thuế, thất thu thuế, hạn chế hiệu quả các hành vi dịch chuyển lợi nhuận làm xói mòn cơ sở thuế.
- Đảm bảo mục tiêu hội nhập quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển và xu hướng cải cách chính sách thuế TNDN trên thế giới.
Theo đó, tại dự án Luật Thuế TNDN (sửa đổi) được xây dựng để trình Quốc hội tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
- Về người nộp thuế: Sửa đổi, bổ sung các quy định về người nộp thuế nhằm góp phần nâng cao tính minh bạch của chính sách, tạo thuận lợi cho công tác quản lý thuế; đảm bảo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện thu, nộp, quản lý thuế đối với doanh nghiệp nước ngoài cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho tổ chức, cá nhân tại Việt Nam theo các hình thức kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng công nghệ số, phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Về thu nhập chịu thuế: Sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan để nâng cao cơ sở pháp lý và minh bạch, giảm chi phí tuân thủ của người nộp thuế trong việc xác định các khoản thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, tạo thuận lợi cho công tác quản lý, thu thuế đối với các đối tượng này, đảm bảo thực hiện quyền đánh thuế của Việt Nam trong bối cảnh các hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng công nghệ số có xu hướng ngày càng gia tăng.
- Về thu nhập tính thuế: Sửa đổi, bổ sung quy định để cho phép áp dụng việc bù trừ lỗ, lãi của thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản với thu nhập từ sản xuất kinh doanh (trừ hoạt động được hưởng ưu đãi thuế), qua đó tháo gỡ vướng mắc cho hoạt động của doanh nghiệp, phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế.
- Về thu nhập được miễn thuế: Sửa đổi tiêu chí và điều kiện đối với một số khoản thu nhập được miễn thuế trong lĩnh vực xã hội hóa, khoa học và công nghệ. Bổ sung thêm một số khoản thu nhập được miễn thuế trong một số lĩnh vực, trong đó đặc biệt chú trọng thúc đẩy hơn nữa các hoạt động hướng tới mục tiêu phát triển bền vững tại Việt Nam như: Thu nhập từ chuyển nhượng tín chỉ các-bon lần đầu sau khi phát hành; thu nhập từ tiền lãi trái phiếu xanh; từ chuyển nhượng trái phiếu xanh lần đầu sau khi phát hành...
- Về các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN: Sửa đổi, bổ sung quy định chi tiết một số khoản chi phí được tính vào chi phí được trừ và điều kiện chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt để xác định chi phí được trừ; Chi tiết một số khoản chi phí không được trừ như chi vượt mức theo quy định của pháp luật, chi cho các hoạt động không phù hợp với quy định của pháp luật chuyên ngành.
- Về phương pháp tính thuế: Quy định cụ thể về phương pháp tính thuế theo tỷ lệ % trên doanh thu đối với các đối tượng là: doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú phát sinh thu nhập tại Việt Nam; trường hợp hạch toán được doanh thu nhưng không xác định được chi phí, thu nhập đối với tổ chức được thành lập theo Luật Hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác, doanh nghiệp có tổng doanh thu năm không quá 03 tỷ đồng.
- Về thuế suất thuế TNDN: Bổ sung mức thuế suất (15% và 17%) áp dụng riêng cho doanh nghiệp có doanh thu dưới 03 tỷ đồng, doanh nghiệp có doanh thu từ 03 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng; Sửa đổi, bổ sung các quy định về khung thuế suất đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, về mức thuế suất đối với hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến tài nguyên quý hiếm.
- Về ưu đãi thuế TNDN: Bổ sung quy định về các nguyên tắc áp dụng ưu đãi thuế TNDN đối với: trường hợp có nhiều văn bản cùng quy định; trường hợp doanh nghiệp đáp ứng nhiều điều kiện ưu đãi thuế khác nhau. Quy định chi tiết về đối tượng ưu đãi thuế TNDN (ngành, nghề, địa bàn và các hoạt động được ưu đãi) trên cơ sở cơ bản kế thừa quy định pháp luật hiện hành nhưng có rà soát nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước liên quan đến chính sách ưu đãi thuế, cụ thể:
(i) Rà soát, giảm bớt các ngành, nghề ưu đãi có tính trùng lắp, dàn trải như: tinh chế thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản, phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển công nghệ sinh học, dự án sản xuất có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 6.000 tỷ đồng, dự án đầu tư tại khu công nghiệp, dự án đầu tư tại khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung nhưng không phải là dự án trong lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực công nghệ thông tin; Giảm mức ưu đãi của dự án đầu tư tại khu kinh tế nhưng không nằm trên địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn.
(ii) Bổ sung quy định chính sách ưu đãi thuế TNDN đối với: Dự án thuộc đối tượng áp dụng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt đã được quy định tại Luật Đầu tư năm 2020; đầu tư kinh doanh cơ sở kỹ thuật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), cơ sở ươm tạo DNNVV; đầu tư kinh doanh khu làm việc chung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo theo quy định của Luật Hỗ trợ DNNVV; dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ số để thúc đẩy phát triển lĩnh vực này; hoạt động báo chí khác (ngoài báo in).
(iii) Sửa đổi, bổ sung về thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi đối với doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, dự án ứng dụng công nghệ cao, dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp; về tiêu chí ưu đãi và việc áp dụng ưu đãi thuế đối với dự án đầu tư mở rộng.
- Về các trường hợp miễn, giảm thuế khác: Bổ sung quy định giảm 50% số thuế phải nộp đối với thu nhập của đơn vị sự nghiệp công lập từ hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công tại địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn; bổ sung quy định miễn thuế 02 năm đối với doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh.
- Về chuyển lỗ: Sửa đổi, bổ sung quy định việc chuyển lỗ đảm bảo tính liên tục và đồng bộ với việc áp dụng bù trừ lãi từ chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư với lỗ từ hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Về trích lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp: Sửa đổi, bổ sung quy định về lãi suất áp dụng đối với phần trích Quỹ phát triển khoa học và công nghệ không được sử dụng hết phù hợp với mức lãi suất trái phiếu được phát hành trong thực tế và việc quản lý, sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp trong trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi chủ sở hữu, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp.
- Về điều kiện áp dụng ưu đãi thuế TNDN: Bổ sung quy định tiêu chí phân bổ theo chi phí trong trường hợp không hạch toán riêng được thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh được ưu đãi thuế; loại trừ ưu đãi đối với thu nhập từ chế biến khoáng sản, dự án sản xuất hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ dự án sản xuất, lắp ráp ô tô, tàu bay, du thuyền, lọc hóa dầu).
Nhìn chung, nội dung dự án Luật Thuế TNDN (sửa đổi) đảm bảo thể chế hóa đầy đủ các mục tiêu, định hướng của Đảng, của Nhà nước về phát triển KT-XH đất nước và về cải cách hệ thống chính sách thuế, qua đó, góp phần cơ cấu lại NSNN theo hướng an toàn, bền vững, đồng thời, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, khuyến khích và thu hút đầu tư hiệu quả, đồng thời giải quyết được những vấn đề đặt ra từ thực tiễn và xu hướng phát triển mới.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 11/2024